Chậm bán hàng bán lẻ quần áo và đồ đạc trong nhà
Theo dữ liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, doanh số bán lẻ của Hoa Kỳ trong tháng 4 năm nay đã tăng 0,4% tháng và 1,6% so với năm trước, mức tăng thấp nhất hàng năm kể từ tháng 5 năm 2020. Doanh số bán lẻ trong danh mục quần áo và đồ nội thất tiếp tục hạ nhiệt.
Vào tháng Tư, CPI của Hoa Kỳ đã tăng 4,9% so với cùng kỳ, đánh dấu mức giảm thứ mười liên tiếp và mức thấp mới kể từ tháng 4 năm 2021. Mặc dù mức tăng hàng năm của CPI đang thu hẹp, giá của các nhu yếu phẩm cốt lõi như vận chuyển, ăn uống và nhà ở vẫn còn tương đối mạnh, với mức tăng so với năm.
Nhà phân tích nghiên cứu cao cấp của bán lẻ Hoa Kỳ của Jones Lang LaSalle nói rằng do lạm phát dai dẳng và sự hỗn loạn của các ngân hàng khu vực Hoa Kỳ, các nguyên tắc cơ bản của ngành bán lẻ đã bắt đầu suy yếu. Người tiêu dùng đã phải giảm mức tiêu thụ của họ để đối phó với giá cao và chi tiêu của họ đã chuyển từ hàng tiêu dùng phi thiết yếu sang các cửa hàng tạp hóa và các nhu yếu phẩm lớn khác. Do giảm thu nhập thực tế, người tiêu dùng thích cửa hàng giảm giá và thương mại điện tử.
Cửa hàng quần áo và quần áo: Doanh số bán lẻ trong tháng 4 là 25,5 tỷ đô la, giảm 0,3% so với tháng trước và giảm 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái, cả hai tiếp tục giảm xu hướng, với mức tăng trưởng 14,1% so với cùng kỳ năm 2019.
Nội thất và cửa hàng tại nhà: Doanh số bán lẻ trong tháng 4 là 11,4 tỷ đô la Mỹ, giảm 0,7% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm ngoái, nó đã giảm 6,4%, với mức giảm mở rộng hàng năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Các cửa hàng toàn diện (bao gồm các siêu thị và cửa hàng bách hóa): Doanh số bán lẻ vào tháng 4 là 73,47 tỷ đô la Mỹ, tăng 0,9% so với tháng trước, với các cửa hàng bách hóa giảm 1,1% so với tháng trước. Mức tăng 4,3% so với cùng kỳ năm ngoái và 23,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Các nhà bán lẻ phi vật lý: Doanh số bán lẻ trong tháng 4 là 112,63 tỷ đô la, tăng 1,2% so với tháng trước và 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Tốc độ tăng trưởng chậm lại và tăng 88,3% so với cùng kỳ năm 2019.
Tỷ lệ doanh số hàng tồn kho tiếp tục tăng
Dữ liệu hàng tồn kho do Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố cho thấy hàng tồn kho của các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã giảm 0,1% tháng trong tháng trong tháng 3. Tỷ lệ hàng tồn kho/doanh số của các cửa hàng quần áo là 2,42, tăng 2,1% so với tháng trước; Tỷ lệ hàng tồn kho/doanh số của đồ nội thất, đồ nội thất gia đình và cửa hàng điện tử là 1,68, tăng 1,2% so với tháng trước, và đã hồi phục trong hai tháng liên tiếp.
Tỷ lệ nhập khẩu quần áo của Trung Quốc lần đầu tiên giảm xuống dưới 20%
Dệt may và quần áo: Từ tháng 1 đến tháng 3, Hoa Kỳ nhập khẩu và quần áo trị giá 28,57 tỷ đô la Mỹ, giảm một năm là 21,4%. Nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 6,29 tỷ đô la Mỹ, giảm 35,8%hàng năm; Tỷ lệ là 22%, giảm một năm so với năm trước 4,9 điểm phần trăm. Nhập khẩu từ Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh và Mexico đã giảm 24%, 16,3%, 14,4%và 0,2%so với năm trước, chiếm 12,8%, 8,9%, 7,8%và 5,2%, với mức tăng -0,4, 0,5, 0,6 và 1,1%.
Dệt may: Từ tháng 1 đến tháng 3, nhập khẩu đạt 7,68 tỷ đô la Mỹ, giảm 23,7%so với năm. Nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 2,58 tỷ đô la Mỹ, giảm 36,5%hàng năm; Tỷ lệ là 33,6%, giảm 6,8 điểm phần trăm. Nhập khẩu từ Ấn Độ, Mexico, Pakistan và Türkiye là -22,6%, 1,8%, -14,6%và -24%mỗi năm, lần lượt chiếm 16%, 8%, 6,3%và 4,7%, với mức tăng lần lượt là 0,3, 2, 0,7 và -0,03%.
Quần áo: Từ tháng 1 đến tháng 3, hàng nhập khẩu đạt 21,43 tỷ đô la Mỹ, giảm 21%so với cùng năm. Nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 4,12 tỷ đô la Mỹ, giảm 35,3%hàng năm; Tỷ lệ là 19,2%, giảm 4,3 điểm phần trăm. Nhập khẩu từ Việt Nam, Bangladesh, Ấn Độ và Indonesia giảm 24,4%, 13,7%, 11,3%và 18,9%so với năm trước, chiếm 16,1%, 10%, 6,5%và 5,9%, với mức tăng -0,7, 0,8, 0,7 và 0,2 điểm.
Thời gian đăng: Tháng 5-25-2023